Chị tham dự dịch thơ Việt sang tiếng Anh và hiệp tác với một số tạp chí hải ngoại
Cần tìm ra ai đúng ai sai. Ở Hà Nội. Tôi phải tìm tòi và khám phá ra là các sách sử của ta viết không giống nhau. Tôi đã mở mang tri thức. Tầm cỡ các tác phẩm của Trường Viễn Đông Bác cổ Pháp. Có lần chị về Hà Nội để dự một cuộc hội thảo của trọng điểm nghiên cứu Quốc học.
Vụ thời trước có học Nam sử không hay chỉ học Bắc sử? Phải chăng khi Pháp canh tân khoa cử năm 1909 mới đưa Nam sử vào chương trình? Nghiên cứu thì thấy các cụ đã học Sơ học vấn tân. Gia đình chị là tư sản nhỏ. Việc toàn quyền Paul Doumer bôi nhọ Văn thân. Chị cũng dịch một số hợp tuyển truyện ngắn nước ngoài sang tiếng Việt.
Trí thức và thông dịch viên làm việc cho quan Khâm sứ Hà Nội. Chị bảo: "Vì thoạt tiên cần chú thích ảnh. Tóc đã đốm bạc. Chị định xuất bản một cuốn sách ảnh.
Vì dị ứng với hóa chất. Việt kiều có người hỏi: thời hiện đại hóa. Bản thảo xong từ năm 1989. Ra lệnh nên viết to. Tìm ra các chứng cứ. Phụng là việc của quan. Chúng tôi đã thấy hợp chuyện. Tìm ra hai tấm bưu thiếp đã mờ. Nhan đề là Hoa thơm cỏ lạ. Việt kiều ở Pháp. Xin kể lại một số vụ rắc rối mà "thám tử văn học" chị Quỳnh đã điều tra được.
Nhưng công phu nhất và có giá trị nhất là hai tập của bộ sách nghiên cứu về khoa cử Việt Nam: Thi hương (425 trang) và Thi hội. Người nhỏ nhắn. Tra mãi mới ra Cau Do là Cầu Đơ (chỉ Hà Nội). Chị nảy ra ý nghĩ sưu tầm bộ ảnh đầy đủ hơn. Cùng học thời Pháp và cùng là dân Hà Nội chính cống. Đạo Nho đến nay vẫn có chỗ đứng.
Năm 1952. Khoa cử liên can đến vận mệnh nước nhà trong gần nghìn năm. Tiếc thay. Chị xuống thang máy 5-7 tầng hầm. Bác mẹ chị cho con trai sang Pháp để tránh bị bắt lính. Mặc dù rời Việt Nam vào tuổi 21.
Nhưng có ý nghĩ đóng góp cho từng lớp hơn nhiều! Chuyện chị Chân Quỳnh.
Tôi dần vui thích với công việc mình làm. Ngọn ngành câu chuyện là thế này: Năm 1985. Khoa cử xưa không phải chỉ là thi văn chương. Hội sở báo chữ Tây của Phạm Lê Bổng. Một phần ba về Nam sử. Chữ dưới lại to và lệch sang bên phải? Lại viết ngược. Chị chuyển sang học Anh ngữ và đỗ tiến sĩ Trường Sorbonne - Paris. Điều tra. Vụ tài liệu Pháp ghi địa danh không có dấu.
Nhà in Lê Cường. Dưới là phụng. Được biết là ở Thư viện nhà nước Paris còn 2 chiếc bưu ảnh thời kỳ này. Vì phần ghi chú vẫn còn nhiều nghi vấn lịch sử.
Rivìere de Thu là sông Thù (tích trong kinh Lễ). Chỉ năm ba câu bàn thảo. Hiểu biết kỹ thuật ảnh. Biến chị Quỳnh thành một "thám tử văn hóa" cực chẳng đã. Quần áo giản dị. Chỉ là việc của vua. Bản thảo cuốn sách phổ biến dày dần thành sách nghiên cứu. Để hiểu thánh sư ta đã đào tạo kiến thức tu thân trị quốc thế nào. Ở Việt Nam. Tôi không ngờ lại có một trường hợp na ná.
Ăn nói nhẹ nhõm. Vụ cái biển "phụng chỉ": sao chữ trên lại nhỏ. Tìm hiểu. Bộ sách này ra đời do một sự ngẫu nhiên. Kỳ thi văn sách bàn về thuật trị nước mới là xung yếu". Đòi hỏi công phu tìm tòi.
Sửa được những ý nghĩ sai lầm của mình. Vì cùng đời ngần bát tuần.
Tôi Hàng Gai. Chữ trên là chỉ. Chị mua được cuốn sách của người Pháp viết về Đông Dương có một loạt ảnh về lễ xướng danh trường ốc Hà Nam năm 1897 (do Salles chụp). Chị Quỳnh đã học trường Albert Sarraut. Đòi đi cùng em sang Pháp học. Chị vẫn nhớ như in Hàng Bồ với những ngôi nhà lớn như cửa hiệu Quảng Hưng Long.
Bỏ hàng chục năm nghiên cứu khoa cử xưa hữu dụng gì? Chị đáp là để đóng góp cho quốc học.
Cho đối tượng là Việt kiều và người nước ngoài. Kèm thơ văn về thi và một ít chú giải đơn giản. Thì ra: chữ Nho đọc từ phải sang trái. Sau hơn nửa thế kỷ. Đã ngoài năm chục tuổi. Cho là vì các nhà Nho thi hỏng nên bất mãn. Chị gốc Hàng Bồ. Sao ta không quan tâm? Hữu Ngọc.
Thi đình (515 trang khổ to) có những ảnh lịch sử rất quý. Có cửa hàng đồ dệt với khoảng chục công nhân dệt. Chị được học 4 năm ở thành thị dệt Lyon và tốt nghiệp Trường cao học kỹ thuật dệt.
Chị thích quá vì đã đọc sách về thi của Ngô Tất Tố và Chu Thiên. Viết nhỏ. Từ kỹ thuật chuyển sang văn học. Ấy là chưa kể nhờ đọc sách.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét