Gọi vốn từ cộng đồng MW tìm vốn ở đâu để kinh dinh sản phẩm công nghệ mới?
Có thể nói, chính thị trường đã đầu tư cho MS, ngay khi họ chưa hoàn thành sản phẩm. Nghe vô lý, có thể làm điều ấy không? Hoàn toàn có thể và có thực. Công ty Misfit Wearables đã ứng dụng hình thức “gọi vốn công đồng” từ website IndieGoGo. Đây là mô hình kêu gọi cộng đồng góp vốn cho bước khởi nghiệp của những công ty non trẻ. Hình thức này bắt nguồn ở Mỹ từ cuối những năm 2000 với một số website crowdfunding nổi danh như IndieGoGo hay KickStarters. Theo thống kê của MasSolution, một hãng tư vấn các giải pháp khai phá nguồn lực từ cộng đồng (crowdsourcing), hoạt động của các website crowdfunding trên toàn cầu đã vấn được gần 3 tỉ USD trong năm 2012, gấp đôi so với năm trước đó.
Misfit Wearables (MW) đã giới thiệu sản phẩm (mai sau) trên mạng internet và mời cộng đồng đăng ký mua sản phẩm. MW mong muốn thu được 100.000USD sau 1 tháng và thực tại thì họ nhận được 850.000 USD của hơn 8.500 khách hàng trên 64 quốc gia đặt mua hàng. Ở Việt Nam, hình thứcgọi vốn cộng đồngnày chỉ mới xuất hiện được đúng 4 tháng nay với các dự án xã hội, tặng áo ấm cho tường tiểu học Ma Cha hay xây trường tiểu học cho dân tộc HMông ở Sapa, hoặc làm phim âm nhạc của Saigon Electric.
Theo thống kê của MasSolution, một hãng tư vấn các giải pháp khai phá nguồn lực từ cộng đồng (crowdsourcing), hoạt động của các website crowdfunding trên toàn cầu đã thu hút được gần 3 tỉ USD trong năm 2012, gấp đôi so với năm trước đó. | Với những đại gia như Microsoft, Apple hay Samsung, mô hình tung sản phẩm mới xoành xoạch là tận dụng cả bộ máy đồ sộ, từ thiết kế sản phẩm, sinh sản, tiếp thị truyền thông và cả mạng phân phối độc quyền của mình. Nhưngvới những công ty nhỏ khởi nghiệp như MW, ít vốn, không có chuỗi cung ứng hùng mạnh thì thiết kế mô hình theo ưu thế của “người nhỏ”: gọi vốn cộng đồng, tận dụng sức bật cải tiến sản phẩm nhanh, bổ sung nhanh các tính năng mới hơn và khả năng bám chắc được động thái và xu hướng thị trường.Khởi đầu có thể là ý tưởng mới về một sản phẩm mới, mà cũng có thể là ý tưởng… không mới, họ có thể chọn dòng sản phẩm đang có nhu cầu cao trên thị trường, và đưa ra những tính năng, ưu thế vượt trội. Có đủ năng lực đưa ra sản phẩm đủ sức cạnh tranh ra thị trường, các nhà sản xuất kinh doanh trẻ đâu ngán gì chuyện không có nhà đầu tư. Tất nhiên, họ phải thông suốt nhu cầu người tiêu dùng, hiểu điểm mạnh yếu của mình và các đối thủ cạnh tranh, dự báo chính xác các thiên hướng tiêu dùng mới và có giải pháp nhanh, hiệp và có năng lực điều khiển hết thảy các khâu của chuỗi cung ứng sản phẩm của mình từ thiết kế đến sinh sản, tiếp thị truyền thông và phân phối , quơ hoạt động cùng lúc kết liên ngang như một ma trận sống động, chứ không phải rời rạc hay tuần tự sớm muộn.
Nhà đầu tư “trông giỏ bỏ thóc”, đánh giá năng lực nhà kinh dinh , xem xét sản phẩm và quyết định đầu tư . Họ bỏ vốn, nhưng không chỉcho vàngmà cònchỉ đàng đi buôn, nghĩa là vừa góp tiền vừa theo sát suốt quá trình hình thành sản phẩm, giúp đỡ tuốt tuột các khâu mà họ có thế mạnh như tận dụng các mối quan hệ, kiến thức và kinh nghiệm để giúp đối tác. Đây là hình thức đầu tư rủi ro, chọn những sản phẩm công nghệ mới, gắng hỗ trợ khôn xiết và chấp nhận rủi ro, thất bại như trả học phí cho bài học thị trường
Sự ủng hộ của thị trường cho sản phẩm công nghệ
Ở Hoa Kỳ, dạng dự án công nghệ mới này thường khởi đi từ các “Vườn ươm doanh nghiệp” hay từ các Đại học.Trong bài trước, chúng tôi có nói lướt qua về cách dạy và học ở trường QTKD Sloan của Đại học MIT và hoạt động của vườn ươm doanh nghiệp của trường. Ở đây xin nói rõ thêm về cách “ươm” doanh nghiệp của MIT. Ngay trong khuôn viên nhà trường, có một khu vực riêng gọi là Media lab (phòng thí điểm truyền thông) là nơi sinh viên làm các thí điểm, thực hiện. Nhà trường tổ chức các hoạt động “lôi kéo” các công ty vào đầu tư, đăng nhiều bài báo khuyến khích mối quan hoài của toàn từng lớp và “đánh bóng” cho những ý tưởng mới về công nghệ mới của sinh viên, và nếu dự án có triển vọng thì sinh viên có thể thành lập công ty luôn. Những nhà đầu tư (cá nhân chủ nghĩa hay doanh nghiệp) có thể coi nhưngười đại diện của thị trườngđồng hành cùng sinh viên, cùng tham dự, tác động để tăng khả năng thương nghiệp hóa cho sản phẩm của dự án.
Cơ chế đầu tư là: tham gia cổ phần để chia sẻ trách nhiệm và được lợi cả hai hình thức, vô hình (giúp lớp trẻ khởi nghiệp thành công) và hữu hình (sản phẩm sinh lợi thì chia lãi cho các nhà đầu tư). Tỉ lệ các dự án của SV thành công có khi chỉ là 20% nhưng các công ty và nhà đầu tư vẫn tham gia nhiều vì bằng lòng về sự đóng góp của mình. Kiều Trang kể rằng, ông thầy chủ nhiệm của Media Lab rất trân trọng sự sáng tạo của sinh viên, nhận ra ngay những dự án “chắc thắng” và viện trợ khá sát các dự án này, thậm chí, có dự án tốt mà chưa có ai đầu tư, thầy cũng bỏ tiền túi ra đầu tư để giúp học trò. Ở MIT, không ít trường hợp có nhữngý tưởnghay, nhà đầu tư mua luôn cả ý tưởng này, từ khi chưa làm thành sản phẩm.
Như vậy, đầu tư cho nghiên cứu, vận dụng, tung sản phẩm mới không chỉ và không phải là chuyện của quốc gia. Trừ nghiên cứu căn bản, giáo dục đào tạo kiến thức khoa học hay truyền thông khoa học-công nghệ thì đối với việc nghiên cứu vận dụng công nghệ làm ra sản phẩm bán trên thị trường, hãy để cho thị trường đặt hàng, cấp vốn,giám định, đòi hỏi cải tiến hay thải để dành chỗ cho sáng kiến mới, sản phẩm mới ra đời. Việc nhà nước cấp ngân sách với những nguyên tắc thủ tục chặt chẻ nghiêm nhặt tối đa mà người thẩm định (trình duyệt cấp ngân sách) không có hay không sát chuyên môn và cũng không quan tâm, không đủ sức kiểm tra hiệu quả việc cấp vốn thì…khó mà không xãy ra phí phạm, quan lại, tiêu cực.
Đầu tư rủi ro và gọi vốn cộng đồng cho những sản phẩm công nghệ mới, ngay khi còn ở dạng là ý tưởng, ở Việt Nam là việc quá mới, còn khó được ủng hộ bởi thói quen khuyến khích cái mới, ủng hộ cái táo bạo của lớp trẻ dám thử sức với công nghệ, có lẽ chưa thành quán tính rộng rãi trong xã hội ta. | Tôi hỏi Kiều Trang đâu là những điểm khác nhau, giả sử tung sản phẩm này ở Việt nam thay vì ở Hoa Kỳ? Cô nghĩ suy một hồi và nói cẩn trọng, có lẽ có nhiều điểm khác nhau nhưng xem đó là hăng hái hay thụ động còn do giác độ tiếp cận. Đầu tư rủi ro và gọi vốn cộng đồng cho những sản phẩm công nghệ mới, ngay khi còn ở dạng là ý tưởng, ở Việt Nam là việc quá mới, còn khó được ủng hộ bởi nếp khuyến khích cái mới, ủng hộ cái táo tợn của lớp trẻ dám thử sức với công nghệ, có lẽ chưa thành quán tính rộng rãi trong từng lớp ta. Mặt nào đó, do điều kiện sống, do bối cảnh thị trường, người tiêu dùng còn phải tuyển lựa hàng hóa giá rẻ hơn, và cũng chưa nghiêm nhặt tỏ thái độ với vi phạm sở hữu trí óc. Khi một xã hội đã quen với thị trường phát triển mạnh mẻ các sản phẩm công nghệ cao thì người tiêu dùng đánh giá cao sản phẩm của trí tuệ, sẵn sàng ứng những đồng bạc cụ thể từ túi mình, có khi không nhỏ, để mua sản phẩm như một thái độ chọn lọc, một nghĩa cử lặng lẽ ươm mầm cho những thành tựu của kiến thức, coi đó là góp sức cho lớp trẻ ưu tú và xúc tiến tiến bộ của nền công nghệ.
Như vậy việc kết nối công nghệ với thị trường không đơn giản chỉ là những cơ chế, chính sách cụ thể kéo hai phía lại gần nhau , hỗ trợ bổ sung cho nhau phải đặt trên cái nền là đổi thay nhận thức của xã hội.
Thay lời kết cho câu chuyện thị trường và công nghệ
Như vậy, quyết định sức sống của sản phẩm là thị trường. Bán được sản phẩm không phải nhờ cúng bái, chọn được ngày tốt lì xì hay vay được vốn từ cõi trên. Quốc gia tạo ra hố xí pháp lý cho mọi hoạt động của thị trường, và quản lý, giám sát, chứ không thể nào điều khiển, chỉ đạo thị trường. Nhà nước cần tác động để tạo ra một từng lớp quan tâm và ưu ái với khoa học, công nghệ, trong đó, luôn có nhiều người, nhiều công ty bỏ vốn đầu tư cho công nghệ (thay vì dốc hết túi vào đất đai, chứng khoán)
Thị trường công nghệ tạo thời cơ cho mọi người, ai cũng có thể là nhà đầu tư cho công nghệ mới, cụ thể như khách hàng mua MS trên mạng, họ trở thành nhà đầu tư chỉ với 69 USD ứng trước mua sản phẩm. Với nguồn lực bất tận đó của toàn từng lớp (về tài chính, kiến thức, kinh nghiệm…) mới đủ sức làm được vai trò hộ sinh, bệ phóng cho những sản phẩm công nghệ mới. Và rồi lại cũng chính sức ép cạnh tranh từ thị trường, sự gạn lọc thải loại những sản phẩm yếu kém hơn, lạc hậu hơn mà người tiêu dùng được phục vụ tốt hơn, hưởng lợi nhiều hơn , thúc đẩy luôn nền công nghệ nước nhà phát triển.
Tôi gặp lại Kiều Trang lần thứ nhì vào chiều chủ nhật 14/7 để sáng hôm sau cô bay sang Hàn Quốc làm việc với nhà máy sản xuất Misfit Shine (MS). Cô khoe với tôi bộ ảnh quảng cáo có 5 tấm vừa hoàn thành tại TPHCM, trong đó, tôi thích ba bức: người đàn ông trông giống James Bond đang bước qua hội sở ngân hàng quốc gia VN, tay vung cao thấy rõ thiết bị MS ở vị trí thường đeo đồng hồ; chàng thiếu niên ham mê nhảy Hip hop với thiết bị MS gắn ở cổ chiếc giày thể thao và cô vũ công với vẻ liêu trai đang ngắm mặt dây chuyền trên chiếc cổ gầy– thiết bị MS – trông nhã và đương đại. Bộ ảnh phải đổ mấy lần, cứ phải chụp đi chụp lại để toát cho được cái thần của MS rất đồng điệu với những con người bận rộn và đầy sinh khí; nhưng cũng phải kịp với dịp ra mắt website chính thức, quảng cào, bán hàng giữa tháng 7/2013; cùng lúc với việc giao hơn 8.500 thiết bị cho khách hàng đặt qua mạng ở 64 nước và dịp công bố chuỗi cửa hàng phân phối toàn cầu cho sản phẩm đầu tháng 8. Công ty Misfit Wearables (MW) chọn cách xây dựng phương án phân phối thật “lợi hại” là phát huy một hệ thống phân phối có sẵn của một thương hiệu công nghệ dẫn đầu thị trường toàn cầu, trên cơ sở tạo ra cho sản phẩm mình những tính năng tương tác có ích và thuận lợi, đồng nghĩa với việc những bộ óc kinh dinh của MS đã hướng tới việc xây dựng thị trường tiêu thụ chính của mình ngay từ thiết kế định dạng trước tiên của sản phẩm. |
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét